Những loại hình đồ gốm (nồi, bát, cốc, vò…) có hình dáng đẹp, chắc, khoẻ, phần nhiều đã được chế tạo từ bàn tay. Mặt ngoài đồ gốm phủ đầy hoa văn trang trí với những đường vạch sắc sảo, những nét cong uyển chuyển, mềm mại, được phối trí, đối xứng và hài hòa. Đó là một biểu hiện về óc thẩm mỹ khá cao của người Việt Nam lúc bấy giờ….”
Vậy là kỹ nghệ gốm giai đoạn Phùng Nguyên (cách ta gần 4.000 năm) ở nước ta đã phát triển mạnh. Con người buổi đó đã biết nghĩ ra bàn xoay và chế tạo ra thứ men để phủ ngoài, tăng thêm vẻ dẹp kỳ diệu của đồ gốm.
Đây là một thời kỳ của nước Văn Lang. Cho tới thời Âu Lạc, kỹ nghệ gốm đã phát triển mạnh lắm. Nghề nung gạch, làm ngói… cũng đã có từ ngày này.
Phải nói thời cực thịnh của gốm sứ là thời kỳ Lý – Trần (thế kỷ XI – XIV). Đó là những năm đất nước phồn thịnh, kinh tế mạnh mẽ, quân sự vững mạnh, văn hóa phát triển, đất nước an bình, mọi kỹ nghệ được khuyến khích phát đạt.
Nghề gốm, xem ra phát triển rải rác khắp đất nước. Ở tỉnh nào cũng có những vùng làm nghề gốm. Cứ ven các dòng sông, chúng ta gặp nhiều mảnh sành, mảnh gốm còn vương sót lại. Hoặc chúng ta gặp những dãy lò gốm đang ăn khói nghi ngút. Những trung tâm sứ gốm ở nước ta, xuất hiện từ thời Lý – Trần mà đến nay vẫn còn hưng thịnh nghề nghiệp, đó là Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Quế Quyển (Hà Nam Ninh), Chum Thanh (Thanh Hóa)…
Mỗi vùng quê gốm lại giữ kỹ nghệ riêng biệt. Và mỗi nơi, lại có mặt hàng gốm đặc trưng riêng của mình, tạo thêm cái đa dạng và phong phú của công nghệ gốm Việt Nam. Nếu nói trung tâm gốm ở nước ta, phải nói tới Bát Tràng – Thổ Hà – Hương Canh. Một đặc điểm riêng biệt và rõ nét nhất của nghề gốm là đều phát triển dọc sát các triền sông. Bởi lẽ nó tiện đường chuyên chở, và đất sét dọc các triền sông là thứ nguyên liệu quý để sản xuất gốm, sứ.
Theo tài liệu giới thiệu Lịch sử nghề gốm ở Thổ Hà của Ty Văn hóa Hà Bắc, và tài liệu Tìm hiểu nghề gốm ở Bát Tràng, tư liệu đánh máy của Viện Mỹ thuật, năm 1964, cho biết: Vào khoảng thời Lý – Trần có người đỗ Thái học sinh (đặc biệt chức Thái học sinh thì mới có từ thời Trần) được cử đi sứ nhà Tống (Trung Quốc) là: Hứa Vĩnh Kiều, người làng Bồ Bát (Thanh Hóa), Đào Trí Tiến, người làng Thổ Hà (Hà Bắc), Lưu Phong Tú, người làng Kẻ Sặt (Hải Dương). Cả ba ông này, khi đi sứ đã học được nghề sứ gốm. Khi về nước, ba ông chọn ngày lành tháng tốt lập đàn ở bên sông Hồng làm lễ truyền nghề cho dân làng. Công nghệ có được phân như sau: Ông Kiều về Bồ Bát, ông Tiến về Thổ Hà, ông Tú về Phù Lãng, và:
- Làng Bồ Bát chuyên chế các hàng gốm sắc trắng.
- Làng Thổ Hà chuyên chế các hàng gốm sắc đỏ.
- Làng Phù Lãng chuyên chế các hàng gốm sắc vàng, thẫm.
Nửa năm sau nghiên cứu, chế tạo thành công, ba ông lấy các đồ gốm do tay mình chế được, dâng Vua xem. Nhà Vua thấy sản vật đẹp, liền khen thưởng các quan sứ thần bốn chữ “Trung ái Quán Thế” và phong cho ba ông danh “Khởi nghệ tiên triết”. Tục truyền, dịp này, dân làng ở ba nơi đều tế lễ sầm uất và linh đình. Sau dâng ba tuần rượu, dân chúng nhảy nhót hoan hô để biểu dương các ngài đem nghề về truyền cho dân. Sau khi ba ông mất, dân chúng ba nơi đều tôn ba ông là “Tổ sư”, tức “Tổ nghề”.
Phường gốm Bồ Bát sau có rời ra ngoài Bắc. Dọc theo con sông Hồng, tới một bãi sông có đất thó trắng, họ dừng lại lập lò gốm ở đó, với tên gọi Bạch Phường thổ, sau này đổi là Bát Tràng phường. Và ngày nay, ta quen gọi là Bát Tràng.
Ấm men ngọc, ấm hoa nâu, ấm men nâu thời Lý-Trần
Đồ gốm thời Lý – Trần phát triển mạnh, nhiều ở số lượng và quý ở chất lượng. Thịnh hành hai loại gốm chính, là: (1) Gốm trang trí kiến trúc, thường là đất nung để mộc, hoặc phủ một lớp men có giá trị độc đáo. Ví dụ như gạch có in hoa văn để trang trí với nhiều dáng hình, kích thước khác nhau. Hoặc ngói bò có gắn đầu phượng, đầu rồng. Hoặc hình gốm trang trí hình chiếc lá nhọn đầu để gắn trên nóc hoặc riềm nhà… (2) Còn như gốm gia dụng, thì đủ thể loại. Nào bát đĩa, ấm, âu, chén, vại, chum, vò. Đồ gốm thời kỳ này, ngoài ý nghĩa sử dụng trong nước, còn được xuất đi nhiều nước khác.
Lịch sử từng ghi lại, từ đầu nhà Lý đã có nhiều nước tới buôn bán, trao đổi hàng hóa với nước ta như Nam Dương, Xiêm La (Thái Lan)… Tới thế kỷ XII, các thuyền buồm ngoại quốc cập bến nước ta càng đông. Năm 1149, Triều Lý cho lập cảng Vân Đồn, để thuyền bè các nước vào ra buôn bán. Cho tới nay, dọc hai bên bờ bến cảng Vân Đồn còn lại nhiều mảnh gốm của nhiều thời đại ở Việt Nam sản xuất. Trong đó, có cả mảnh gốm men ngọc của thời Lý. Vậy, đó chẳng là dấu tích để khẳng định hàng gốm của ta từ xưa đã đạt trình độ cao đó sao?
Ở nước ta, có thời người dân cứ sính đồ ngoại. Ví dụ: Mặt hàng gốm men ngọc thời Lý của chính nước ta làm ra thì gọi là “gốm Tống” hoặc “đồ Tống”.
Hiện tại, ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam còn lưu giữ được nhiều đồ gốm, đồ sứ các thời đại của nước ta. Đó là những dấu tích để chứng minh kỹ nghệ phẩm ở nước ta sớm phát triển, và từ xưa, nghề gốm ở nước ta đã chiếm địa vị quan trọng trong nền kinh tế, văn hóa của dân tộc. Qua đây, chúng ta càng thêm yêu quý đôi bàn tay khéo léo và bộ óc giàu sáng tạo của những người thợ gốm Việt Nam. Để hiểu sâu thêm về nghề gốm, chúng tôi muốn giới thiệu một đôi nét về các kiểu lò gốm và men gốm từ xưa ở nước ta.
Lò gốm xa xưa
Thực ra, nguyên lý của lò gốm xưa và nay không khác nhau nhiều lắm. Nó vẫn dựa trên nguyên lý cơ bản, cấu tạo gồm 3 phần: bầu lò, thân lò, hệ thống ống khói. Chỉ có điều, lò gốm ngày xưa thì nhỏ bé và đơn giản.
Do sự phân chia công dụng của mỗi loại lò, nên đã có tên gọi riêng cho lò gốm: lò quan và lò dân. Sản phẩm lò quan chủ yếu phục vụ cung đình và giao bằng quốc tế. Còn sản phẩm lò dân là những vật dụng thông thường cho con người sinh hoạt hàng ngày như: cốc, bát, ấm, lò, lọ, chum, vại… Theo lệ thường, sản phẩm ở lò quan bao giờ cũng được đầu tư kỹ thuật cao hơn ở lò dân.
Theo tài liệu của Đỗ Văn Ninh (Viện Khảo cổ) về việc khai quật khu lò nung gốm sứ ở Bút Tháp (Thuận Thành) cho thấy: Khu lò nung gốm sứ này gồm 4 lò với cấu trúc kiểu lò tương tự giống nhau. Toàn bộ lò nhìn bên ngoài có hình quả dưa, giữa phình rộng, hai đầu cụt. Kích thước đo được ở một lò có hình thức bề thế và to lớn hơn ba lò kia, cho thấy: chiều dài 3,35 mét, chiều rộng nhất gần 2 mét. Như thế, quy mô của lò nung thời đó nhỏ gọn.
Điểm đáng chú ý là các lò gốm, hầu hết dùng nhiên liệu đốt bằng tre, gỗ; nhiên liệu than chưa dùng vào thời kỳ này. Qua đây, nó thể hiện tiêu chuẩn kỹ thuật nung thời đó và ý thức tự lực tự cường nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương rất cao.
Phần khác, thấy rằng, cấu trúc lò rất đơn giản và sáng tạo; thợ đắp lò thời xưa chỉ dùng đất sét mà đắp chứ chưa phải dùng tới gạch chịu lửa để cuốn bầu lò và thân lò. Trong khi đó, ở Trung Quốc, lò sứ gốm thời Đường không lớn lắm (thường dài 3 mét, rộng 2 mét), vậy mà đã phải dùng tới gạch chịu lửa để xây cửa đốt và xây ống khói.
Cũng theo tài liệu về khảo cổ học năm 1975 của Trần Đình Luyện (Sở Văn hóa Bắc Ninh) cho chúng ta biết thêm về khu lò nung gốm, gạch ở Đông Yên thuộc phần đất Bắc Ninh, nằm bên bờ sông Ngũ Huyện vào thời Lê Mạt. Cấu trúc của lò có khác kiểu lò ở Bút Tháp. Đó là lò gốm hình tròn, có đường kính 1,2 mét, tường lò đắp đất có lẫn mảnh sành gạnh nhỏ, dầy 1 mét, chân tường choãi, bên trên thu nhỏ dần theo kiểu vòm cuốn. Bầu lò được tạo hình phễu, đắp liền với tường lò, cũng bằng đất với bề dầy xấp xỉ 0,2 mét.
Qua khảo cứu, lò gốm ở Đông Yên có phần tiến bộ hơn ở Bút Tháp. Song cứ dọc tuyến tiến triển của các lò gốm qua các thời đại, ta thấy, cho tới đầu thế kỷ XX này, các lò nung mới được cải tiến một bước lớn. Đó là chuyển hình thức từ đun lò con cóc sang hình thức đun lò rộng nhiều bầu. Chuyển dần thể thức đun tre gỗ sang đun than và đun dầu. Đó là những bước tiến xa và khẳng định sức sống bất hủ của kỹ nghệ gốm thủ công.
Ngày nay, với kiểu lò gốm hiện đại, người ta đã thiết kế kiểu lò vòng liên hoàn. Đó là một hình thức của lò gạch tiên tiến. Người ta chỉ việc nhóm lò một lần, và ngọn lửa lò cứ cháy truyền từ bầu lò này sang bầu lò kia, ngọn lửa ấy cứ cháy mãi cho tới ngày lò hỏng. Những cải tiến văn minh đó, là khởi nguồn từ chiếc lò gốm cổ thô sơ thuở xưa…
Men gốm thời Lý – Trần
Thời Lý – Trần: từ thế kỷ 10 đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Việt Nam. Thời kỳ phục hồi độc lập dân tộc sau hơn mười thế kỷ đô hộ của phong kiến Trung Hoa. Suốt bốn thế kỷ, từ nhà Lý sang nhà Trần, đồ gốm đạt được những thành tựu rực rỡ. Quy mô sản xuất, chủng loại sản phẩm, chất liệu… đều được mở rộng. Nhiều loại men được ứng dụng và ổn định về công nghệ. Đặc biệt men trắng cũng xuất hiện ở thời kỳ này ngoài men tro và men đất. Ba yếu tố cơ bản tạo nên vẻ đẹp của đồ gốm là hình dáng, hoa văn trang trí, men màu. Sự phát triển của kỹ thuật và trình độ thẩm mỹ cao đã tạo nên sản phẩm gốm thời kỳ này có những loại nổi tiếng là gốm men trắng ngà chạm đắp nổi, gốm hoa nâu, gốm men ngọc, gốm hoa lam.
Gốm men trắng thời Lý
Bát gốm men trắng, thế kỷ 11-13, nghệ thuật gốm thời Lý.
Về tạo dáng gốm Lý – Trần ngoài những hình mẫu trong thiên nhiên như hoa, quả là cách tạo dáng của những đồ đồng trước đó. Trang trí trên gốm Lý – Trần, hoa văn hình học chiếm vị trí phụ. Những hoạ tiết chính ở đây là hoa lá, chim, thú, người. Hoa văn trang trí với cách miêu tả giản dị, mộc mạc rất gần gũi với thiên nhiên và con người Việt Nam. Một đặc điểm nữa là nét chìm được làm “bè” ra, một bên rõ cạnh, một bên biến dần vào sản phẩm, làm chỗ chảy dồn men, tạo nên độ đậm nhạt cho hoạ tiết như trên gốm men ngọc hoặc làm giới hạn để tô nâu.
Thời Lý – Trần là thời thịnh vượng của kỹ nghệ gốm. Vì thế, men gốm thời Lý – Trần phong phú là điều tất yếu.
Trước thời kỳ này, một số đồ gốm ở dạng gốm mộc, không phủ men mà được bao ngoài một lớp áo gốm, khâu phủ áo gốm không phải nơi nào cũng làm, nhưng Thổ Hà và Phù Lãng đều có dùng tới áo gốm. Áo gốm là một dung dịch tổng hợp giữa đất và chay, với công thức 4 đất 1 chay. Đất là gốm, giã nhỏ, sàng lọc cẩn thận. Còn chay là một thứ đá có lẫn gỉ sắt ở ngay địa phương. Chay cũng phải giã nhỏ, sàng lọc kỹ càng. Có hai thứ đất và chay rồi, trộn lẫn, pha nước, hòa tan thành một dung dịch. Tất cả các đồ gốm trước khi đem nung được nhúng vào dung dịch này, tạo ra một lớp áo gốm. Nếu cứ thế đem nung lên, là có gốm đẹp rồi. Hoặc giả, muốn phủ men ngoài thì ta phủ men lên lớp áo gốm.
Có ba loại men gốm tiêu biểu thời Lý – Trần. Đó là gốm men ngọc, gốm hoa nâu, gốm hoa lam.
Gốm men ngọc (celadon): Khi đã có xương gốm tốt, người ta phủ ngoài một lớp men dày màu xanh mát, trong bóng như thuỷ tinh, do đó mới gọi là gốm men ngọc. Đồ gốm men ngọc ở ta rất giá trị, được trong và ngoài nước ưa chuộng. Người ta thường sánh gốm men ngọc của ta với đồ gốm Long Tuyền thời Tống của Trung Quốc.
Đĩa men ngọc trang trí văn in hoa cúc dây, thời Lý
Gốm men ngọc thời Lý thường tạo xương gốm mỏng, thanh. Tới thời Trần, thì phần xương gốm chắc, dầy hơn. Hoa văn trang trí trên gốm, đa phần là hình tượng hoa sen cách điệu. Ngoài ra còn một số đề tài khác, như trang trí hoa thảo và các hoa dây chạy quanh bình gốm. Có ba hình thức trang trí trên đồ gốm: hoa khắc, hoa in và hoa đắp. Hoa in chìm hoặc đắp nổi thì dùng khuôn, còn hoa khắc thì đùng mũi dao đầu nhọn hoặc một đầu thanh tre vẽ lên xương gốm khi đất còn mềm.
Khắc hoa rồi đem nhúng vào men, men đọng lại và tạo ra các hình hoa văn trang trí rất đẹp. Bên cạnh các đồ gốm men ngọc cầu kỳ và tinh xảo đó, người thợ thủ công còn sản xuất một số đồ gốm đại trà, có khi để mộc, có khi phủ lớp men mỏng màu vàng, màu nâu, hoặc màu da lươn mà xỉn màu và ít bóng. Loại gốm này để sử dụng thông dụng và ngay khi nung, người ta nung từng chồng cao.
Thời Lý, đồ gốm hầu như không viết chữ. Tới thời Trần, ta thường thấy dưới trôn các loại đồ gốm có hàng chữ mầu nâu “Thiên Trường phủ chế”.
Đĩa đài men xanh ngọc thời Trần
Trong cuốn Gốm Việt Nam, họa sĩ Trần Khánh Chương đã viết: “Trong lòng đĩa bát thời Lý ta thường gặp những đồ án mà bố cục chung cố tình không đều đặn… hoa văn có khi được in bằng khuôn in nhưng thường là những nét khắc tay rất công phu. Phủ lên toàn bộ sản phẩm là một lớp men xanh mát, có độ trong như ngọc mà người ta thường gọi là men ngọc hay men Đông thanh.
Qua lớp men trong, tuỳ nét khắc to hay nhỏ, nông hay sâu mà hoa văn hiện lên với độ đậm nhạt khác nhau, khi ẩn, khi hiện, kín đáo, trang nhã. Trên những bát đĩa thuộc loại này, hoa văn có khi được in bằng khuôn in, nhưng thường là những nét khắc tay rất công phu. Đây hẳn là loại sản phẩm “cao cấp”, có lẽ là đồ gốm gia dụng của tầng lớp quý tộc. Chiếc bát gốm men ngọc vẽ rồng này chắc chắn là đồ thuộc tầng lớp đại quý tộc vương công. Thời Trần nhiều vương gia có dinh phủ, có quân đội riêng.
Hình rồng này ta có thể thấy được sự tiếp nối của thời Lê sơ trong một bát hoa lam vẽ rồng phát hiện ở thành cổ khu A TK XV. Lối họa tiết in nổi ta cũng tìm thấy trong Hoàng thành một nắp hộp đồ gốm men xanh lục (vert glazed) thuộc dòng gốm có mầu sắc men quyến rũ, hoa văn trang trí đẹp, các đề tài hoa lá, trong đó những đồ tinh xảo trang trí rồng tìm thấy trong Hoàng thành hố A9MR là một tiêu bản tư liệu đặc sắc. Chiếc bát gốm miệng rộng hình lá sen men ngọc này được làm từ đất sét trắng.
Khi cầm lên có cảm giác dầy dặn, xương đất được lọc kỹ, với mầu men xanh lục có độ thủy tinh trong nên độ bóng khá cao, nhìn dịu mắt, mát tay. Xương gốm chạm khắc rồng tinh tế được phủ men dày nên hoa văn có chiều sâu lung linh.
Bát men ngọc trang trí rồng thuộc TK XIII, XIV này còn nguyên vẹn hiếm thấy, đạt tới những tiêu chuẩn điển hình trong gốm sứ, dáng hình thanh nhã, họa tiết khoáng đạt, tinh tế, rồng mây uyển nhã, lớp men của loại đất đá ô xít cô ban nhiều, tinh khiết nên đạt được sắc độ xanh trong, mát nhẹ nổi tiếng một thời và là tiêu bản quý hiếm.
Gốm hoa nâu: Đó là loại gốm đàn, kiểu dáng to, chắc chắn, cốt gốm dầy và thô. Bên ngoài có phủ lớp men trắng ngà hoặc vàng nhạt. Gốm hoa nâu xuất hiện vào cuối thời Lý đầu thời Trần.
Hình thức trang trí hoa văn trên gốm hoa nâu thường là hoa dây chạy viền quanh miệng đồ gốm. Đặc biệt, hầu hết các sườn gốm hoa nâu có đắp nổi hình hoa thảo, chim cò, thú bốn chân, hoặc tôm cá… rất sinh động. Các hình rồng trang trí ở gốm hoa nâu thời Trần có khác thời Lý. Đó là mình rồng khỏe mập, uốn khúc thoải mái, khác hẳn con rồng thời Lý thân hình thanh mảnh và uốn khúc gò bó.
Thạp, hũ, liễn trang trí hoa và chim. Gốm hoa nâu, triều Trần thế kỷ 13,14
Thống trang trí hoa sen, cúc dây. Gốm hoa nâu, triều Trần, thế kỷ 13 - 14
Gốm hoa lam: là tên một hoại gốm phủ men trắng đục vẽ trang trí màu lam.
Để có màu men đẹp, điều cần thiết phải có cốt xương gốm tốt. Xem ra, thông thường thì xương gốm là đất sét có pha cát. Nếu gốm cổ, lại pha cả một số tạp chất khác như rơm, rạ, trấu hoặc lá cỏ dại để tăng độ liên kết.